VPA/FLEGT: những “góc khuất” bây giờ mới tiết lộ qua lời kể người trong cuộc

P/v bà Nguyễn Tường Vân, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam.

Trước khi nghỉ hưu để đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp Việt Nam, bà Nguyễn Tường Vân là Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ và Hợp tác quốc tế của Tổng cục Lâm nghiệp, đã trực tiếp tham gia suốt quá trình đàm phán VPA/FLEGT về thương mại gỗ với EU. Xuyên suốt quá trình đàm phán và ngay cả khi triển khai thực thi VPA/FLEGT, là những cuộc “đấu trí” gay cấn giữa hai bên, bà Vân đã chia sẻ với Phóng viên Tạp chí Kinh tế Việt Nam nhiều “góc khuất” chưa từng được tiết lộ trước đây.

Xin bà cho biết vì sao Việt Nam phải đàm phán VPA/FLEGT với EU?
Hiệp định VPA/FLEGT có tên tiếng Anh “Voluntary Partnership Agreement on Forest Law Enforcement, Governance and Trade” (viết tắt là VPA/FLEGT); tên tiếng Việt đầy đủ là “Hiệp định Đối tác tự nguyện về thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản”. Việt Nam là một trong 2 quốc gia đầu tiên đàm phán VPA/FLEGT với EU. Suốt nhiều năm qua và cho đến bây giờ, vẫn không ít người cho rằng xuất khẩu gỗ của Việt Nam tăng trưởng rất tốt, việc Chính phủ nước ta đàm phán VPA/FLEGT với EU có cần thiết hay không?


Thực tế, đàm phán này không xuất phát từ Chính phủ, mà từ nhu cầu của doanh nghiệp. Năm 2010, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam đại diện hàng nghìn doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ gửi đơn lên xin Chính phủ đàm phán với EU về vấn đề FLEGT. Chính phủ phải suy xét 4 tháng mới thấy việc đàm phán là cần thiết, từ đó yêu cầu Tổng cục Lâm nghiệp triển khai đàm phán.
Hàng năm thế giới mất đi 100 triệu ha rừng trong giai đoạn 2000-2010. Nhằm chống lại nạn khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp ở các nước sản xuất, năm 2008, Hoa Kỳ sửa đổi đạo Luật Lacey (có hiệu lực từ tháng 4/2010): Cấm nhập khẩu gỗ bất hợp pháp vào Mỹ, đưa hình thức xử phạt rất nặng đối với người vi phạm. Năm 2003, EU bắt đầu khởi động Chương trình FLEGT “Quản trị rừng và thương mại lâm sản”. Năm 2010, Ủy ban châu Âu (EC) ban hành quy chế gỗ hợp pháp (EUTR 995) có hiệu lực từ tháng 3/2013: Cấm nhập khẩu gỗ bất hợp pháp vàp EU.

Đảm bảo cây giống chất lượng.


Phải nói rằng Luật của EU chỉ áp dụng đối với công dân EU, chứ không áp dụng đối với doanh nghiệp (công dân) Việt Nam, và họ cũng không đề nghị Việt Nam đàm phán VPA/FLEGT. Nhưng các đối tác ở EU yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ của nước ta phải cung cấp các giấy tờ chứng minh gỗ hợp pháp đó cho mỗi lô hàng, thì các doanh nghiệp nước ta rất lúng túng, không biết phải cung cấp cho họ những giấy tờ nào để chứng minh nguồn gốc gỗ, nên rất vất vả và tốn nhiều chi phí để làm việc này. Vì vậy, doanh nghiệp đã hối thúc Hiệp hội Gỗ và lâm sản làm đơn lên Chính phủ xin đàm phán VPA/FLEGT.
Thực tế đến nay cho thấy: đàm phán VPA/FLEGT là đúng đắn. Không chỉ EU và Hoa Kỳ đòi tính hợp pháp của gỗ, mà sau đó hầu hết các quốc gia tiêu thụ gỗ đều đòi hỏi gỗ phải hợp pháp. Austraylia ban hành Luật chống khai thác gỗ bất hợp pháp, có hiệu lực từ 30/11/2014. Nhật Bản đưa ra “Luật gỗ sạch” vào năm 2016. Hàn Quốc ban hành Luật sử dụng gỗ bền vững có hiệu lực từ 1/10/2018.
Hiệp định VPA/FLEGT đã trở thành một trong những nội dung cam kết trong Chương 13: Thương mại và phát triển bền vững của Hiệp định Thương mại Tự do VN-EU (EVFTA). Đây cũng chính là công cụ giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về quản lý rừng bền vững, thực hiện cam kết COP 26 “đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050.

Trong quá trình đàm phán VPA/FLEGT gặp phải những khó khăn nào, thưa bà?
Cuộc đàm phán này thực sự là một cuộc đấu trí giữa đoàn đàm phán phía Việt Nam và đoàn đàm phán phía EU. Rất nhiều vấn đề bất đồng giữa hai bên tưởng như không thể giải quyết nổi, đã từng có lúc việc đàm phán phải ngừng lại tới 2 năm. Đây cũng chính là lý do khiến thời gian đàm phán kéo dài tới 6 năm, bắt đầu diễn ra từ năm 2011, nhưng mãi đến năm 2017 mới kết thúc đàm phán, và đến năm 2018 mới ký kết được Hiệp định.
Phía EU với mong muốn tất cả các nước trên toàn cầu phải quản trị rừng và lâm sản bền vững, ngăn chặn triệt để tình trạng khai thác trái phép rừng nguyên sinh. Tuy nhiên, họ không thể áp đặt lên các quốc gia ở châu Á, châu Phi. Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu đồ gỗ hàng đầu thế giới, xuất khẩu sản phẩm gỗ đến 100 quốc gia. Tuy nhiên, vì nguyên liệu gỗ không đủ cho nhu cầu chế biến đồ gỗ, nên mỗi năm Việt Nam nhập khẩu 8 triệu m3 gỗ nguyên liệu từ hơn 80 quốc gia. Cơ quan Môi trường của Ủy ban Châu Âu – đoàn đám phán phía EU nhìn thấy điều này, và coi Việt Nam là nơi để “túm”, qua Việt Nam để áp luật lâm nghiệp lên các quốc gia khác. Khi mới đàm phán, phía EU đưa ra yêu cầu Việt Nam phải dựng hàng rào đối với gỗ nhập khẩu vào Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta nhìn ra vấn đề: Nếu ta dựng hàng rào đối với nhập khẩu gỗ, thì nguy cơ các nước khác sẽ dựng hàng rào lên các mặt hàng nông sản mà ta đang có thế mạnh xuất khẩu như gạo, cà phê, hồ tiêu, điều… Do đó, ta từ chối điều này dẫn đến sự bất đồng đã khiến việc đàm phàn lâm vào bế tắc, phải ngừng lại.
Lúc đó chúng tôi từng nghĩ sẽ khó nối lại việc đàm phán FLEGT. Nhưng rồi sau đó, chúng ta cũng đã thuyết phục EU từ bỏ yêu cầu Việt Nam dựng hàng rào đối với nhập khẩu gỗ, thay vào đó, Việt Nam sẽ có giải pháp khác để đảm bảo tính hợp pháp cho toàn bộ chuỗi cung ứng gỗ.
Một vấn đề khác, lúc đầu phía EU muốn đứng ra thiết lập hệ thống kiểm soát gỗ và cấp giấy phép FLEGT (gỗ hợp pháp) cho các doanh nghiệp gỗ Việt Nam. Nhưng chúng ta cũng nhìn thấy, nếu để các tổ chức của EU sang trực tiếp cấp giấy FLEGT, thì nguy cơ sẽ làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp gỗ nước ta, gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam. Bởi thực tế, các doanh nghiệp sản xuất rừng theo quản lý rừng bền vững FSC, phải mất khoản lệ phí rất cao cho mỗi giấy chứng nhận FSC. Vì vậy, phía đoàn đàm phán nước ta đưa ra đề xuất: Việt Nam sẽ xây dựng hệ thống kiểm soát gỗ và cấp giấy chứng nhận FLEGT. Ban đầu phía EU không đồng ý, nhưng sau quá trình thuyết phục, họ đã chấp nhận vấn đề này.

Hiệp định VPA/FLEGT đã được ký kết từ tháng 10/2018 và có hiệu lực từ tháng 6/2019, nhưng việc triển khai thực hiện đến nay vẫn còn gặp nhiều gian nan, vì sao?
Khi đề nghị Chính phủ đàm phán VPA/FLEGT, phía Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam mong muốn có cơ chế cấp giấy phép FLEGT cho các doanh nghiệp xuất khẩu gỗ, để vượt qua được “hàng rào” tại EU. Tuy nhiên đến thời điểm này, sau khi chờ đợi 7 năm đàm phán, và Hiệp định có hiệu lực đã 4 năm, nhưng vẫn chưa có giấy phép FLEGT nào được cấp. Đã có những doanh nghiệp xuất khẩu gỗ tỏ ra hồ nghi về lợi ích của Hiệp định này.
Hiệp định VPA/FLEGT nêu lên 3 cam kết chính: Loại bỏ hoàn toàn gỗ bất hợp pháp khỏi chuỗi cung ứng gỗ của Việt Nam; Thiết lập và vận hành Hệ thống đảm bảo Gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS); Cấp giấy phép FLEGT cho thị trường EU. Quá trình thực thi Hiệp định VPA/FLEGT thời gian qua đã gặp phải rất nhiều khó khăn thách thức. Trước hết là Việt Nam phải hoàn thiện các văn bản pháp luật. Những năm qua, chúng ta đã nỗ lực sửa đổi Luật Lâm nghiệp từ Luật Bảo vệ và phát triển rừng, để tương thích với nhiều điều luật của phía EU. Việt Nam đề nghị “không” áp dụng trực tiếp những cam kết của Hiệp định VPA/FLEGT mà thông qua việc ‘’nội luật hóa’’ bằng một Nghị định của Chính phủ về Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam (VNTLAS). Ngày 1/9/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 102/2020/NĐ-CP về Hệ thống đảm bảo gỗ hợp pháp Việt Nam nhằm nội luật hóa các cam kết của VPA.
Thách thức tiếp theo, do chuỗi cung ứng gỗ của Việt Nam rất dài và phức tạp với: nhiều nguồn gỗ, đa dạng về thị trường, sự tham gia của nhiều bên liên quan (hơn 10.000 doanh nghiệp, 1 triệu hộ gia đình trồng rừng). Việc thực thi VPA/FLEGT đã làm tăng thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp ngành gỗ so với trước đây, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư nhân lực vào kiểm soát chuỗi cung ứng gỗ, đồng thời phải tuân thủ pháp luật hiện hành của Việt Nam không chỉ về Luật lâm nghiệp, mà còn về các vấn đề: đất đai, đầu tư-kinh doanh, lao động, môi trường, thuế…

Quản lý gỗ nhập khẩu như thế nào để đảm bảo tính hợp pháp của gỗ, thưa bà?
Quản lý gỗ nhập khẩu là một trong nội dung cam kết quan trọng của Hiệp định VPA/FLEGT, được “nội luật hóa” tại Điều 4, 5, 6, 7, Mục 1, Chương II của Nghị định 102/2020/NĐ-CP. Để các quốc gia xuất khẩu gỗ thấy rằng Việt Nam tôn trọng Luật pháp của họ, đồng thời cũng không để các nước đó có “cớ” để dựng hàng rào đối lên các mặt hàng nông sản khác của Việt Nam, chúng ta đưa ra quy định: Gỗ nhập khẩu hợp pháp là phải tuân thủ đầy đủ luật pháp của nước xuất khẩu. Thông qua điều này, Chính phủ các nước xuất khẩu gỗ nguyên liệu sẽ có ý thức trong việc quản trị rừng bền vững, ngăn chặn khai thác rừng nguyên sinh, kiểm soát khai thác gỗ bất hợp pháp. Các nhà nhập khẩu gỗ ở nước ta sẽ phải thực hiện trách nhiệm giải trình về nguồn gốc gỗ nhập khẩu thông qua việc nộp Bản kê khai nguồn gốc nhập khẩu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin đã khai báo. Chúng ta áp dụng bổ sung thêm 2 “bộ lọc rủi ro”, đó là: Loài rủi ro và Vùng địa lý rủi ro. Với những lô gỗ nhập khẩu có rủi ro (những loài chủ yếu là cây gỗ rừng nguyên sinh, ít xuất hiện ở rừng trồng) sẽ phải bổ sung thêm giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp lô gỗ nhập khẩu. Trong đó, chứng chỉ quản lý rừng bền vững là những giấy tờ được chấp nhận.

Hiện nay Hệ thống VNTLAS đang tiến hành phân loại doanh nghiệp chế biến xuất khẩu gỗ, để làm gì thưa bà?
Công đoạn cuối cùng khi thực hiện VPA/FLEGT là cấp giấy phép FLEGT cho các lô hàng xuất khẩu sản phẩm gỗ. Các lô hàng có giấy phép FLEGT của Việt Nam khi nhập khẩu vào EU sẽ không phải thực hiện trách nhiệm giải trình về nguồn gốc gỗ hợp pháp theo quy chế EUTR 995/2010. Thời điểm cấp phép FLEGT là khi hệ thống VNTLAS đã vận hành đầy đủ và đã trải qua việc đánh giá độc lập hoặc kiểm tra của bên thứ ba để đảm bảo hệ thống hoạt động như mong đợi, xác định và khắc phục bất kỳ điểm yếu hoặc không tuân thủ trong hệ thống.
Với quan điểm là không có hàng hóa xấu, mà chỉ có doanh nghiệp xấu, vì vậy, để đơn giản hóa việc cấp giấy phép FLEGT, trong Nghị định 102/2020/NĐ-CP đưa ra việc phân loại doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gỗ thành 2 nhóm. Nhóm 1 là nhóm tuân thủ đầy đủ pháp luật của Việt Nam. Doanh nghiệp có tên trong nhóm 1 sẽ không cần xác minh, mà doanh nghiệp sẽ được tự xác nhận vào Bảng kê lâm sản khi làm hồ sơ xuất khẩu, và sẽ được cấp giấy FLEGT ngay. Nhóm 2 là các doanh nghiệp chưa tuân thủ các quy định của Pháp Luật Việt Nam, cơ quan chức năng sẽ phải tiến hành xác minh tính hợp pháp của lô hàng gỗ của các doanh nghiệp này trước khi cấp giấy phép FLEGT. Hy vọng các doanh nghiệp ngành gỗ nhanh chóng hoàn thiện hồ sơ để việc phân loại sớm hoan thành, để những giấy phép FLEGT đầu tiên sẽ được cấp từ năm 2023.

Xin cám ơn Bà!

Văn Trì tổng hợp (Nhà báo Chu Khôi thực hiện).

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *